Tôi nhìn khuôn mặt đột nhiên phóng to trước mắt mình, não bộ nhất thời đông cứng.
Người đó toét miệng cười, chỉ chỉ thứ mà tôi đang cầm trong lòng tay, thân mật hỏi: “Bạn à, bạn đang cầm gì thế?”
Lời vừa dứt, thẻ công tác đeo trên cổ người đó cũng rủ xuống, đung đưa, ba chữ to tướng in trang trọng trên mặt thẻ lập tức khiến tôi xa xẩm mặt mày - Ban Giám thị.
Chung Cường vừa thấy thế, lập tức đứng dậy nộp bài, sau đó biến mất khỏi phòng thi với tốc độ cực nhanh.
Tôi nhìn theo bóng dáng đã mất dạng của Chung Cường, cuối cùng nhìn xuống thứ đang nắm trong tay mình, miệng há ra nhưng biết là vô ích, rõ ràng đã bị đối phương bắt ngay tại trận, có trăm miệng cũng không biện bạch được gì.
Đầu tiên tôi thấy sợ hãi, sau đó là xấu hổ, tiếp đến là bắt đầu nhìn thẳng vào cuộc đời thê lương, và cuối cùng là tạo dáng vẻ hiên ngang lẫm liệt, xả thân vì nghĩa lớn.
Vốn dĩ thứ đó rơi trên mặt đất, mọi người xung quanh không ai chịu nhận, nên chỉ cần giải quyết qua loa cho xong chuyện là được. Nhưng người này lại không sớm không muộn, cố ý chọn đúng thời điểm đẹp nhất để bắt quả tang, tôi thật là oan hơn cả Đậu Nga[2].
[2] Đậu Nga: tên nhân vật nữ chính trong vở kịch Đậu Nga oan của Quan Hán Khanh, nội dung kể về một người đàn bà bình thường chết oan, khiến trời đất cũng phải rung động.
“Còn không cam tâm ư?” Trong văn phòng, thầy giám thị cười cười hỏi tôi.
“Hơi hơi.” Tôi lạnh lùng.
“Cái này không phải của em à?”
“… Phải ạ!” Tôi viết đấy, tôi in đấy, tôi cắt đấy!
“Không phải do em mang vào phòng thi đấy chứ?”
“… Phải ạ!”
“Vậy thì em đừng nói với tôi, em vốn định quay bài nhưng trước khi làm bài, em đột nhiên cắn rứt lương tâm, quyết định ăn năn hối lỗi, rồi em đã tốt bụng cho bạn mượn tờ giấy đó, kết quả là bạn em bất cẩn để nó rơi xuống chân em, và đúng lúc ấy tôi xuất hiện…” Người đó nhướn mày, nói tiếp: “Cô học trò, lời giải thích thế này từ vài năm trước đã không còn thịnh hành ở trường chúng ta nữa rồi.”
Mặt tôi từ đỏ tím biến thành xanh đen, người này đã nói một lèo tất tần tật những gì tôi muốn nói. Tôi hít một hơi thật sâu, thầm nghĩ, saoời lại có kiểu giáo viên vậy chứ?
Khi nhìn thấy bộ dạng nhàn nhã thong dong, vẻ mặt dương dương tự đắc của đối phương, tôi càng thấy phẫn nộ, tức giận đến mức chỉ muốn lập tức bổ nhào đến bóp chết lão.
Trước khi rời đi, tôi còn hằm hằm quay đầu lại: “Thầy!” Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.
“Ừm. Còn gì muốn nói à?”
“Làm phiền thầy trả nó cho em.”
“Để làm gì?” Đối phương thờ ơ hỏi.
“Chiều nay thi Pháp luật đại cương, em còn phải dùng.” Tôi đáp.
Tôi nghe thấy tiếng lạch cạch ngoài cửa, chắc là Bạch Lâm nghe lén bên ngoài hành lang bị vấp ngã rồi.
Thật không ngờ người thầy trẻ măng kia không hề tức giận chút nào, trái lại còn khẽ mỉm cười, hất cằm về phía chứng cứ phạm tội của tôi đang để ở trên bàn, nói: “Lấy rồi đi đi. Nhưng mà, học trò này, chiều nay em muốn quay bài thì phải chọn cách nào tốt hơn một chút, chứ lén mang phao vào phòng thi là cách ngốc nhất đấy.”
Tôi: “…”
Bạch Lâm: “…”
Hết ngày này qua ngày khác, đến khi thi xong tất cả các môn, tôi vẫn không bị thầy phụ đạo triệu tập, cũng không nhận được bất kỳ thông tin xử phạt nào từ khoa.
Bẩm sinh tôi đã ít hơn người khác một dây thần kinh nên dần dần tôi cũng chẳng để tâm đến chuyện này nữa. Về đến nhà là toàn tâm toàn ý ăn no ngủ kỹ, chăm sóc bản thân béo lên một chút để nhiệt liệt chào đón cuộc sống mới của một sinh viên năm ba.
2
Dưới sự chỉ đạo tuyển sinh của Bộ Giáo dục, hằng năm số lượng sinh viên được tuyển của Đại học A đều tăng lên, ngôi trường cũ trở nên vô cùng chật chội, không còn đủ chỗ. Vì vậy nhà trường đã sắp xếp cho sinh viên năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba học ở khu Tây, khu này đã được sửa chữa lại, đến năm thứ tư hoặc làm nghiên cứu sinh mới được trở về cơ sở chính của trường.
Khu Tây của trường nằm trong một thị trấn nhỏ, cách thành phố A mấy chục kilômét, phần lớn xung quanh đều là cánh đồng, cho nên, đừng nói là dạo , ngay đến việc tìm một chỗ để giải trí cũng rất khó khăn.
Phòng ký túc của chúng tôi có bốn người: tôi, Bạch Lâm, Tống Kỳ Kỳ và Triệu Hiểu Đường, chúng tôi học chung một lớp.
Cứ đến cuối tuần, sau khi ăn bữa tối buồn tẻ, tôi cùng Tống Kỳ Kỳ ra ngoài trường xem phim. Cái được gọi là rạp chiếu phim ở đây thực ra chỉ là một phòng chiếu, luôn chiếu bản lậu, không có bản gốc. Vì thế, nếu muốn xem một bộ phim điện ảnh mới thì phải đợi lâu hơn trong thành phố rất nhiều ngày. Nhưng đổi lại, một vé chỉ mất có tám tệ. Nếu có một trăm tệ nộp trước thì có thể làm thẻ hội viên, giá vé mỗi lần giảm xuống chỉ còn năm tệ, mức giá này quả thực vô cùng hấp dẫn.
Tôi và Tống Kỳ Kỳ không có thẻ, nhưng chúng tôi cũng tiếc ba đồng phải trả chênh đó.
“Cháu mua hai vé lúc bảy giờ.” Tống Kỳ Kỳ đưa cho người bán vé hai mươi đồng.
“Có thẻ không?” Bà thím hỏi.
“Có, có.” Tống Kỳ Kỳ quay đầu lại nháy mắt với tôi: “Tiểu Đồng, thẻ của cậu đâu?”
“À.” Tôi mở túi ra, giả vờ lục ví.
“Nhanh lên, có mang không?” Tống Kỳ Kỳ hỏi.
“Ôi trời!!! Hình như quên mang rồi.” Tôi la lên.
“Hả, vậy phải làm sao đây?” Tống Kỳ Kỳ thở dài, thu lại tờ hai mươi đồng.
“Đành thôi, không xem nữa vậy.” Tôi nói.
“Haizz…” Tống Kỳ Kỳ lại thở dài.
“Cô ơi!” Tôi bước lên trước, nhỏ nhẹ nói: “Cô ơi, chúng cháu có thẻ, nhưng hôm nay vội quá nên cháu quên mang theo, cô bán cho chúng cháu hai vé hội viên đi ạ!”
Cô ấy bán tín bán nghi: “Thật chứ?”
“Thật ạ, hôm nay chúng cháu quên mang thẻ.” Tôi vội vàng gật đầu, nhìn cô bán vé với vẻ mặt đáng thương. “Nếu chạy về lấy thì không kịp giờ chiếu nữa. Một tuần chúng cháu chỉ có mỗi hôm nay là rảnh rỗi, những buổi tối khác đều phải tự học, học hành rất chăm chỉ đấy ạ! Tiền sinh hoạt của cháu một ngày chỉ có mười đồng, nếu có thể tiết kiệm ba đồng một vé xem phim thì cũng đủ cho cháu mua thêm một ít thịt rồi…”
Tôi nói như sắp khóc vậy.
Cô bán vé nhìn tôi: “Cô bé này đúng là gầy thật. Thôi được, lần sau nhớ phải mang thẻ đấy.”
Tôi cầm vé, quay đầu lại nhìn Tống Kỳ Kỳ, lén giơ hai ngón tay hình chữ V.
Cách này đã dùng n lần, lần nào cũng thành công. Về sau, chỉ cần bà cô tốt bụng đó nhìn thấy tôi thì chẳng cần hỏi thẻ nữa, nói với người bên cạnh: “Hì, cô nhóc này tôi quen, hội viên ruột đấy!”
Trong tiết trời cuối hạ đầu thu này, khi ve sầu còn cố kéo dài chút hơi tàn trên những cành cây, cũng là lúc tôi bắt đầu bước vào năm thứ ba đại học. Học kỳ này có một môn tự chọn bắt buộc mà chúng tôi đã trông mong từ lâu - Ngoại ngữ 2.
Học viện Ngoại ngữ của Đại học A chia thành năm chuyên ngành: Anh, Nhật, Đức, Nga, Pháp, do đó môn Ngoại ngữ 2 của chúng tôi chỉ có thể chọn lựa giữa Nhật, Đức, Nga, Pháp. Vài năm gần đây, tiếng Nhật và tiếng Pháp rất thịnh hành nên sinh viên trong khoa Anh chọn học thêm tiếng Nhật và tiếng Pháp rất nhiều, nhiều lúc phòng học không đủ chỗ cho sinh viên, nên nhà trường phải tăng thêm lớp.
Phòng bên phải ký túc chúng tôi là của sinh viên khoa Nhật, trong đó có một người là bạn đồng hương với Tống Kỳ Kỳ, ngày nào cũng chạy qua nói sư huynh nào đó của khoa họ học tiếng Nhật xong, có tiền đồ tốt như thế nào, vào làm trong công ty do Nhật đầu tư, cuộc sống thoải mái ra sao.
“Haizz, thật ra tôi thấy ban đầu các cậu không nên chọn khoa Anh”, “Tiểu Nhật ngữ” lại bắt đầu than thở.
“Tại sao?” Tống Kỳ Kỳ hỏi lại.
“Chỉ cần là người có học thì ai cũng biết, học cái này ra thì làm được gì chứ?”
Tống Kỳ Kỳ tính tình thoải mái, chỉ cười cười cho qua chuyện.
Người đó toét miệng cười, chỉ chỉ thứ mà tôi đang cầm trong lòng tay, thân mật hỏi: “Bạn à, bạn đang cầm gì thế?”
Lời vừa dứt, thẻ công tác đeo trên cổ người đó cũng rủ xuống, đung đưa, ba chữ to tướng in trang trọng trên mặt thẻ lập tức khiến tôi xa xẩm mặt mày - Ban Giám thị.
Chung Cường vừa thấy thế, lập tức đứng dậy nộp bài, sau đó biến mất khỏi phòng thi với tốc độ cực nhanh.
Tôi nhìn theo bóng dáng đã mất dạng của Chung Cường, cuối cùng nhìn xuống thứ đang nắm trong tay mình, miệng há ra nhưng biết là vô ích, rõ ràng đã bị đối phương bắt ngay tại trận, có trăm miệng cũng không biện bạch được gì.
Đầu tiên tôi thấy sợ hãi, sau đó là xấu hổ, tiếp đến là bắt đầu nhìn thẳng vào cuộc đời thê lương, và cuối cùng là tạo dáng vẻ hiên ngang lẫm liệt, xả thân vì nghĩa lớn.
Vốn dĩ thứ đó rơi trên mặt đất, mọi người xung quanh không ai chịu nhận, nên chỉ cần giải quyết qua loa cho xong chuyện là được. Nhưng người này lại không sớm không muộn, cố ý chọn đúng thời điểm đẹp nhất để bắt quả tang, tôi thật là oan hơn cả Đậu Nga[2].
[2] Đậu Nga: tên nhân vật nữ chính trong vở kịch Đậu Nga oan của Quan Hán Khanh, nội dung kể về một người đàn bà bình thường chết oan, khiến trời đất cũng phải rung động.
“Còn không cam tâm ư?” Trong văn phòng, thầy giám thị cười cười hỏi tôi.
“Hơi hơi.” Tôi lạnh lùng.
“Cái này không phải của em à?”
“… Phải ạ!” Tôi viết đấy, tôi in đấy, tôi cắt đấy!
“Không phải do em mang vào phòng thi đấy chứ?”
“… Phải ạ!”
“Vậy thì em đừng nói với tôi, em vốn định quay bài nhưng trước khi làm bài, em đột nhiên cắn rứt lương tâm, quyết định ăn năn hối lỗi, rồi em đã tốt bụng cho bạn mượn tờ giấy đó, kết quả là bạn em bất cẩn để nó rơi xuống chân em, và đúng lúc ấy tôi xuất hiện…” Người đó nhướn mày, nói tiếp: “Cô học trò, lời giải thích thế này từ vài năm trước đã không còn thịnh hành ở trường chúng ta nữa rồi.”
Mặt tôi từ đỏ tím biến thành xanh đen, người này đã nói một lèo tất tần tật những gì tôi muốn nói. Tôi hít một hơi thật sâu, thầm nghĩ, saoời lại có kiểu giáo viên vậy chứ?
Khi nhìn thấy bộ dạng nhàn nhã thong dong, vẻ mặt dương dương tự đắc của đối phương, tôi càng thấy phẫn nộ, tức giận đến mức chỉ muốn lập tức bổ nhào đến bóp chết lão.
Trước khi rời đi, tôi còn hằm hằm quay đầu lại: “Thầy!” Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.
“Ừm. Còn gì muốn nói à?”
“Làm phiền thầy trả nó cho em.”
“Để làm gì?” Đối phương thờ ơ hỏi.
“Chiều nay thi Pháp luật đại cương, em còn phải dùng.” Tôi đáp.
Tôi nghe thấy tiếng lạch cạch ngoài cửa, chắc là Bạch Lâm nghe lén bên ngoài hành lang bị vấp ngã rồi.
Thật không ngờ người thầy trẻ măng kia không hề tức giận chút nào, trái lại còn khẽ mỉm cười, hất cằm về phía chứng cứ phạm tội của tôi đang để ở trên bàn, nói: “Lấy rồi đi đi. Nhưng mà, học trò này, chiều nay em muốn quay bài thì phải chọn cách nào tốt hơn một chút, chứ lén mang phao vào phòng thi là cách ngốc nhất đấy.”
Tôi: “…”
Bạch Lâm: “…”
Hết ngày này qua ngày khác, đến khi thi xong tất cả các môn, tôi vẫn không bị thầy phụ đạo triệu tập, cũng không nhận được bất kỳ thông tin xử phạt nào từ khoa.
Bẩm sinh tôi đã ít hơn người khác một dây thần kinh nên dần dần tôi cũng chẳng để tâm đến chuyện này nữa. Về đến nhà là toàn tâm toàn ý ăn no ngủ kỹ, chăm sóc bản thân béo lên một chút để nhiệt liệt chào đón cuộc sống mới của một sinh viên năm ba.
2
Dưới sự chỉ đạo tuyển sinh của Bộ Giáo dục, hằng năm số lượng sinh viên được tuyển của Đại học A đều tăng lên, ngôi trường cũ trở nên vô cùng chật chội, không còn đủ chỗ. Vì vậy nhà trường đã sắp xếp cho sinh viên năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba học ở khu Tây, khu này đã được sửa chữa lại, đến năm thứ tư hoặc làm nghiên cứu sinh mới được trở về cơ sở chính của trường.
Khu Tây của trường nằm trong một thị trấn nhỏ, cách thành phố A mấy chục kilômét, phần lớn xung quanh đều là cánh đồng, cho nên, đừng nói là dạo , ngay đến việc tìm một chỗ để giải trí cũng rất khó khăn.
Phòng ký túc của chúng tôi có bốn người: tôi, Bạch Lâm, Tống Kỳ Kỳ và Triệu Hiểu Đường, chúng tôi học chung một lớp.
Cứ đến cuối tuần, sau khi ăn bữa tối buồn tẻ, tôi cùng Tống Kỳ Kỳ ra ngoài trường xem phim. Cái được gọi là rạp chiếu phim ở đây thực ra chỉ là một phòng chiếu, luôn chiếu bản lậu, không có bản gốc. Vì thế, nếu muốn xem một bộ phim điện ảnh mới thì phải đợi lâu hơn trong thành phố rất nhiều ngày. Nhưng đổi lại, một vé chỉ mất có tám tệ. Nếu có một trăm tệ nộp trước thì có thể làm thẻ hội viên, giá vé mỗi lần giảm xuống chỉ còn năm tệ, mức giá này quả thực vô cùng hấp dẫn.
Tôi và Tống Kỳ Kỳ không có thẻ, nhưng chúng tôi cũng tiếc ba đồng phải trả chênh đó.
“Cháu mua hai vé lúc bảy giờ.” Tống Kỳ Kỳ đưa cho người bán vé hai mươi đồng.
“Có thẻ không?” Bà thím hỏi.
“Có, có.” Tống Kỳ Kỳ quay đầu lại nháy mắt với tôi: “Tiểu Đồng, thẻ của cậu đâu?”
“À.” Tôi mở túi ra, giả vờ lục ví.
“Nhanh lên, có mang không?” Tống Kỳ Kỳ hỏi.
“Ôi trời!!! Hình như quên mang rồi.” Tôi la lên.
“Hả, vậy phải làm sao đây?” Tống Kỳ Kỳ thở dài, thu lại tờ hai mươi đồng.
“Đành thôi, không xem nữa vậy.” Tôi nói.
“Haizz…” Tống Kỳ Kỳ lại thở dài.
“Cô ơi!” Tôi bước lên trước, nhỏ nhẹ nói: “Cô ơi, chúng cháu có thẻ, nhưng hôm nay vội quá nên cháu quên mang theo, cô bán cho chúng cháu hai vé hội viên đi ạ!”
Cô ấy bán tín bán nghi: “Thật chứ?”
“Thật ạ, hôm nay chúng cháu quên mang thẻ.” Tôi vội vàng gật đầu, nhìn cô bán vé với vẻ mặt đáng thương. “Nếu chạy về lấy thì không kịp giờ chiếu nữa. Một tuần chúng cháu chỉ có mỗi hôm nay là rảnh rỗi, những buổi tối khác đều phải tự học, học hành rất chăm chỉ đấy ạ! Tiền sinh hoạt của cháu một ngày chỉ có mười đồng, nếu có thể tiết kiệm ba đồng một vé xem phim thì cũng đủ cho cháu mua thêm một ít thịt rồi…”
Tôi nói như sắp khóc vậy.
Cô bán vé nhìn tôi: “Cô bé này đúng là gầy thật. Thôi được, lần sau nhớ phải mang thẻ đấy.”
Tôi cầm vé, quay đầu lại nhìn Tống Kỳ Kỳ, lén giơ hai ngón tay hình chữ V.
Cách này đã dùng n lần, lần nào cũng thành công. Về sau, chỉ cần bà cô tốt bụng đó nhìn thấy tôi thì chẳng cần hỏi thẻ nữa, nói với người bên cạnh: “Hì, cô nhóc này tôi quen, hội viên ruột đấy!”
Trong tiết trời cuối hạ đầu thu này, khi ve sầu còn cố kéo dài chút hơi tàn trên những cành cây, cũng là lúc tôi bắt đầu bước vào năm thứ ba đại học. Học kỳ này có một môn tự chọn bắt buộc mà chúng tôi đã trông mong từ lâu - Ngoại ngữ 2.
Học viện Ngoại ngữ của Đại học A chia thành năm chuyên ngành: Anh, Nhật, Đức, Nga, Pháp, do đó môn Ngoại ngữ 2 của chúng tôi chỉ có thể chọn lựa giữa Nhật, Đức, Nga, Pháp. Vài năm gần đây, tiếng Nhật và tiếng Pháp rất thịnh hành nên sinh viên trong khoa Anh chọn học thêm tiếng Nhật và tiếng Pháp rất nhiều, nhiều lúc phòng học không đủ chỗ cho sinh viên, nên nhà trường phải tăng thêm lớp.
Phòng bên phải ký túc chúng tôi là của sinh viên khoa Nhật, trong đó có một người là bạn đồng hương với Tống Kỳ Kỳ, ngày nào cũng chạy qua nói sư huynh nào đó của khoa họ học tiếng Nhật xong, có tiền đồ tốt như thế nào, vào làm trong công ty do Nhật đầu tư, cuộc sống thoải mái ra sao.
“Haizz, thật ra tôi thấy ban đầu các cậu không nên chọn khoa Anh”, “Tiểu Nhật ngữ” lại bắt đầu than thở.
“Tại sao?” Tống Kỳ Kỳ hỏi lại.
“Chỉ cần là người có học thì ai cũng biết, học cái này ra thì làm được gì chứ?”
Tống Kỳ Kỳ tính tình thoải mái, chỉ cười cười cho qua chuyện.







0 nhận xét:
Đăng nhận xét