Chỉ
nửa tiếng sau, Mộ Thừa Hòa không quản đường xa, gió rét lái xe xuất
hiện trước mặt tôi, còn mang theo giấy tờ tùy thân: chứng minh thư nhân
dân, thẻ công tác, thậm chí mang cả giấy chứng nhận giảng viên.
Một trong hai vị công an kia xem các giấy tờ của lão xong thì lập tức thay đổi sắc mặt, nói: “Ồ, thầy chính là Mộ Thừa Hòa ư? Tôi từng trông thấy thầy trên báo.” Mặt người đó lộ rõ vẻ vinh hạnh vì gặp được Mộ Thừa Hòa.
Thế là thầy đã giải quyết mọi việc thuận lợi, bế Bạch Lâm, dẫn chúng tôi ra ngoài như dẫn hai chú cún sống lang thang lưu lạc ngoài đường, đặt Bạch Lâm nằm ở ghế sau.
Tôi tự giác ngồi vào ghế lái phụ, thắt dây an toàn, không đợi lão mở lời trước, tôi đã chủ động nhận tội: “Thưa thầy, chúng em sai rồi, sau này sẽ không dám nữa. Qua lần này, em nhất định sẽ hối cải, tuân thủ kỷ luật của nhà trường. Em xin thề, thật đấy!” Tôi giành cơ hội hối lỗi trước khi lão kịp giáo huấn, hy vọng khơi dậy lòng nhân từ của lão, đừng tố cáo tôi và Bạch Lâm với khoa.
Mộ Thừa Hòa quay sang nhìn tôi nói chuyện một mình với vẻ mặt đầy hứng thú, rất lâu mà chẳng nói lời nào.
Tôi không dám nhìn vào mắt lão ta, cảm thấy thiếu tự tin nên cứ vặn vặn mấy ngón tay mình: “Thưa thầy, chúng em sai thật rồi, thầy mắng em đi!” Chỉ cần thầy đừng giao em cho nhà trường, thầy mắng em thế nào cũng được.
Lão ta bật cười: “Trước đây tôi từng nói, tôi chưa bao giờ nổi nóng với bất kỳ sinh viên nào.”
Tôi ngẩng lên nhìn lão, đột nhiên cảm thấy của người này có chút gian gian, giả tạo vô cùng. Dù những từ ngữ này dùng cho Mộ Thừa Hòa – ân nhân cứu mạng của chúng tôi – thì thực là không có chút đạo nghĩa.
“Trốn ra ngoài bằng cách nào vậy?”
“Trèo tường.” Tôi thành thật báo cáo.
“Uống bao nhiêu rồi?”
“Bạn ấy ba, bốn chai, em sáu, bảy chai.”
“Hả…? Tửu lượng của em khá nhỉ?” Lão nhướn mày.
Tôi tự hào: “Đương nhiên rồi, từ nhỏ mẹ đã chú trọng huấn luyện em, mẹ nói con gái phải ngàn ly không say thì khi ra ngoài mới không sợ bị người khác bắt nạt.”
“Vậy sao?” Lão hỏi lại.
Thấy ánh mắt như cười như không của lão, nét mặt đắc ý đến quên mình của tôi thoáng chốc âm u. Tôi đang là tội nhân, không thể tự kiêu được.
Thế là, đề tài này đến đây kết thúc.
“Bây giờ hai em định thế nào? Tôi đưa hai em về ký túc xá nhé?” Lão vừa khởi động xe, vừa hỏi.
“Không được! Như vậy sẽ bị nhà trường phát hiện ạ!” Lão mà đưa chúng tôi về, chắc chắn sẽ không cho chúng tôi vượt tường vào nữa, mà sẽ gõ cửa ký túc xá, rồi để chúng tôi đi vào dưới ánh mắt dò xét nóng bỏng của người quản lý.
“Vậy thì sao?”
“Ừm…” Lần này thì khó thật rồi, đúng lúc này xe đi ngang qua cửa Nam của Đại học A, tôi vội nói: “Thầy thả bọn em ở đây được rồi ạ, bọn em chờ trời sáng.”
“Em định để người bạn này của em ở đâu?” Mộ Thừa Hòa nhìn vào gương chiếu hậu ra dấu cho tôi nhìn Bạch Lâm say khướt đang nằm phía sau.
Tôi cắn môi ngẫm nghĩ một lúc: “Ở cửa bên này có quán net, bọn em vào đó ngồi được rồi.”
Mộ Thừa Hòa lắc đầu, hiển nhiên là lão không đồng ý với ý kiến chẳng hay ho gì của tôi.
Lát sau, lão ta nói: “Đêm hôm khuya khoắt thế này thả hai em xuống đây, tôi cũng không yên tâm. Thôi đến nhà tôi vậy.
2
“Nhà thầy ở đâu?”
“Đông Nhị Hoàn.”
“Ôi xa quá!” Tôi thực không muốn đi.
“Sao lúc nãy khi gọi tôi đến bảo lãnh, em không nghĩ là tôi ở xa?” Lão đành chịu.
“Nhưng mà, sáng mai chúng em còn có tiết đọc hiểu.” Tôi chần chừ.
“Sáng mai tôi đưa em về trường, được chưa?” Lão nhẫn nhịn hỏi lại.
“Vậy thì được ạ!”
Lần này thì tôi không còn gì phải lo rồi.
Tiết trời đầu đông, gió đêm thổi lạnh đến thấu xương. Trong xe bật điều hòa nên không khí nóng hừng hực, lão hạ kính cửa sổ xe xuống một chút, đủ để cảm nhận làn không khí trong lành từ bên ngoài tràn vào, khiến người trong xe có cảm giác thật khoan khoái.
Suốt chặng đường, lão chỉ chăm chú lái xe. Không biết lão có đang thầm hối hận vì mình đã xui xẻo gặp phải đứa sinh viên như chúng tôi hay không?
Vào giờ này, một số cụm đèn giao thông đã ngừng hoạt động, chuyển thành màu vàng nhấp nháy.
Khi đến ngã tư chuẩn bị tiến vào khu Tam Hoàn, đèn đỏ lại bật lên, Mộ Thừa Hòa kiên nhẫn dừng xe. Tay phải đặt trên vô lăng, khuỷu tay trái đặt bên cạnh cửa sổ xe, chống cằm, mắt hướng ra ngoài nhìn những chiếc xe chạy qua trước mặt.
Nhân lúc lão đang nhìn đi nơi khác, tôi lén lút liếc sang quan sát gương mặt lão.
Lúc nãy không để ý, bây giờ tôi mới phát hiện lão đeo cặp kính gọng đen. Không ngờ lão lại bị cận, chắc là nhận được điện thoại của tôi, đi vội quá nên đã không kịp đeo kính sát tròng. Hai mắt của lão đều là mí lót[1], nên nhìn không to lắm, nhưng lại rất sâu. Mẹ tôi thường nói mắt to thu hút, mắt nhỏ hớp hồn, chẳng biết lão này sinh ra là muốn hớp hồn ai. Đồng tử màu nâu nhạt. Sống mũi rất cao.
[1] Mắt mí lót: đôi mắt dài, nhỏ, đuôi mắt hơi xếch, đặc trưng của người Á Đông.
Nếu buộc phải tìm một điểm đặc biệt thú vị trong ngũ quan trên gương mặt lão thì chắc chắn là đôi môi rồi. Môi của lão dường như sinh ra đã hơi cong lên như thế, nếu khẽ mím môi thì cho dù nét mặt đang không có cảm xúc gì cũng sẽ khiến người ta cảm thấy lão như đang cười.
Nếu nói theo con mắt thẩm mỹ của đồng hương Tiểu Bạch thì Mộ Thừa Hòa có thể được xem là một gã trai đẹp rồi chăng? Nhưng tận đáy lòng mình, tôi vẫn cảm thấy bố tôi đẹp trai hơn lão.
Đèn xanh bật sáng.
Xe lại lăn bánh, lão không chú ý đến bên ngoài nữa mà đưa mắt đảo một vòng.
Ánh mắt của tôi và lão trong giây phút ngắn ngủi đã gặp nhau qua gương chiếu hậu. Trong khoảnh khắc ấy, lão thì quang minh chính đại, còn tôi – một đứa lén lút quan sát tướng mạo của người ta nãy giờ - bỗng cảm thấy ngượng nghịu nên lúng túng nhìn ra ngoài.
“Đang nghĩ gì vậy?” Lão hỏi.
“Thì ra lúc đêm khuya, một vài cụm đèn giao thông sẽ biến thành đèn vàng nhấp nháy, thật là thú vị.” Tôi nói đại. “Em sống ở thành phố A lâu rồi, vậy mà trước đây không hề nhận ra điều này.”
Lão cười cười, không tiếp lời.
Tôi lại nói: “Nhưng tại sao lúc nãy lại có đèn đỏ nhỉ?”
“Em không cảm thấy những ngã tư có đèn đỏ đông hơn những chỗ đèn vàng sao?”
Lão nói thế, tôi mới ngẫm lại kỹ càng, hình như đúng là vậy: “Thì ra là thế ạ!”
“Xem ra khả năng quan sát của em kém thật đấy.” Lão nói đùa. “Rodin[2] nói: vẻ đẹp đâu đâu cũng có, đối với đôi mắt của chúng ta, cái đẹp không hề thiếu, mà chỉ thiếu sự phát hiện.”
[2] Auguste Rodin: tên đầy đủ là François-Auguste-René Rodin (1840 – 1917) họa sĩ người Pháp, thường được biết đến là một nhà điêu khắc. Ông là điêu khắc gia hàng đầu của Pháp thời bấy giờ và đến nay, tên tuổi của ông được nhắc đến khắp trong và ngoài giới nghệ thuật.
Mẹ tôi có những phép tắc rất nghiêm, tuyệt đối không cho tôi lang thang ngoài đường muộn hơn giờ xe buýt ngừng hoạt động. Do đó, mặc dù đã sống ở đây rất nhiều năm nhưng tôi rất ít khi có mặt ở ngoài đường vào lúc hai, ba giờ khuya.
Bây giờ nghe lão nói vậy, tôi liền chăm chú quan sát cảnh đêm trên phố.
Những đoạn đường tấp nập người qua lại vào buổi sáng giờ đây lại yên tĩnh đến lạ kỳ. Ngoài một vài người bảo vệ trực đêm đang đi đi lại lại, dường như không còn ai khác. Trên vỉa hè lác đác vài người sống lang thang đang nằm ngủ.
Giờ này, xe cộ lưu thông trên đường rất ít, chỉ có mấy chiếc xe tải ban ngày không được lưu thông trong đường nội thị nên giờ chẳng chút e dè mà phóng như bay, chớp mắt đã lướt qua. Trong đêm khuya thanh vắng, tiếng động cơ ầm ầm như chọc thủng cả màng nhĩ.
Trên một vài con phố, những người lao công đã bắt đầu công việc quét đường. Dưới ánh sáng màu vàng cam của những ngọn đèn đường chiếu rọi, bóng họ như kéo dài ra, thấp thoáng một hình ảnh lam lũ, cực nhọc.
Ở quảng trường trước mặt, một vài người công nhân đang thay những chậu hoa màu xanh.
Khi xe chạy ngang qua ngã tư Đại học Bắc Kinh, nhìn thấy bảng hiệu “Quán nướng Lôi Thị” to đùng, tôi bất giác bật cười, chỉ về phía ấy, nói với Mộ Thừa Hòa: “Khi em học tiểu học, quán thịt nướng đó chỉ là một quán nhỏ bên đường thôi, cánh gà nướng mà bà lão trong đó làm ngon lắm. Khi ấy, mỗi ngày đi học về em đều ghé vào mua, nhưng nếu em chậm quá sẽ bị mẹ mắng, cho nên lần nào em cũng giục bà ấy làm nhanh. Kết quả là, lần nào bà lão cũng giận dỗi quát em: “Con nít mà vội vàng gì chứ, cái này phải nướng từ từ mới ngon!”.”
Lão tủm tỉm cười: “Hình như em là người gốc ở đây?”
Tôi gật đầu: “Phải ạ!” Nói xong, tôi thấy có chút do dự, lại chỉnh sửa: “Nhưng cũng không phải.”
“Sao phải rồi lại không phải?”
“Năm mười một tuổi gia đình em mới chuyển đến thành phố A, lúc ấy em nói tiếng địa phương nhưng giọng không giống lắm. Người vùng khác tưởng em là người gốc ở đây, còn người gốc ở đây thì lại tưởng em là người vùng khác.” Tôi nói, đột nhiên trong lòng có chút thương cảm.
Nhưng lão lại cười: “Em còn trẻ như vậy mà đã không có cảm giác thuộc về một nơi nào đó hay sao?” Trong giọng nói của lão có chút xem thường.
Đúng là nói chuyện không hợp thì nói nửa câu cũng thấy nhiều!
Tôi chau mày, quay mặt qua hướng khác không nói chuyện với lão ta nữa.
Lát sau, lão chợt nói: “ từng sống ở rất nhiều nơi. Đến bây giờ ngay cả bản thân tôi cũng không biết rõ đâu mới là quê hương mình, nhưng lại chưa từng có cảm giác như em.”
Tôi vẫn còn tức tối, nhưng không kìm được, quay qua hỏi: “Tại sao?”
“Tôi từ nhỏ đến lớn, trong mắt người khác đã luôn bị xem là khác loài nên quen rồi.”
“Khác loài? Khác loài thế nào?” Tôi bối rối vẻ khó hiểu.
Lão hơi nhướn mày, không trả lời.
Lần này thì tôi tò mò thật rồi. Tôi thận trọng quan sát lão từ đầu xuống chân rồi lại từ chân lên đầu. Tứ chi đầy đủ, ngũ quan bình thường, dung nhan không bị hủy hoại, ngũ cảm đầy đủ, hơn nữa, sự nhanh nhạy linh hoạt của lão khi quan sát đèn đường cho thấy lão cùng không phải kẻ mù màu.
Không phát hiện có điểm nào kỳ lạ.
Tôi suy đi nghĩ lại hồi lâu, rồi hỏi lão kiểu thăm dò: “Không phải là…não bộ của thầy có vấn đề đó chứ?”
Mộ Thừa Hòa nhìn tôi một cái thật sâu, híp mắt lại, cười theo kiểu có cũng như không rồi nói: “Thật không hổ danh là lớp trưởng do tôi đào tạo.”
Trong lời nói lộ rõ ý châm chọc.
Thật ra, điều mà tôi muốn hỏi nhất không phải là chuyện đầu óc có vấn đề hay không, nhưng tôi ngại nói ra, đồng thời cũng sợ làm tổn thương lòng tự trọng của lão. Tôi nhân từ, cảm thông đến thế mà chỉ đổi lại được một câu châm chọc của lão thôi sao?
Điều này bất giác làm tôi nhớ đến một câu nói bi thương: “Tôi đem tâm tư gửi trăng sáng, nào ngờ trăng sáng soi mương máng.”
Đúng là bi kịch!
3
Một trong hai vị công an kia xem các giấy tờ của lão xong thì lập tức thay đổi sắc mặt, nói: “Ồ, thầy chính là Mộ Thừa Hòa ư? Tôi từng trông thấy thầy trên báo.” Mặt người đó lộ rõ vẻ vinh hạnh vì gặp được Mộ Thừa Hòa.
Thế là thầy đã giải quyết mọi việc thuận lợi, bế Bạch Lâm, dẫn chúng tôi ra ngoài như dẫn hai chú cún sống lang thang lưu lạc ngoài đường, đặt Bạch Lâm nằm ở ghế sau.
Tôi tự giác ngồi vào ghế lái phụ, thắt dây an toàn, không đợi lão mở lời trước, tôi đã chủ động nhận tội: “Thưa thầy, chúng em sai rồi, sau này sẽ không dám nữa. Qua lần này, em nhất định sẽ hối cải, tuân thủ kỷ luật của nhà trường. Em xin thề, thật đấy!” Tôi giành cơ hội hối lỗi trước khi lão kịp giáo huấn, hy vọng khơi dậy lòng nhân từ của lão, đừng tố cáo tôi và Bạch Lâm với khoa.
Mộ Thừa Hòa quay sang nhìn tôi nói chuyện một mình với vẻ mặt đầy hứng thú, rất lâu mà chẳng nói lời nào.
Tôi không dám nhìn vào mắt lão ta, cảm thấy thiếu tự tin nên cứ vặn vặn mấy ngón tay mình: “Thưa thầy, chúng em sai thật rồi, thầy mắng em đi!” Chỉ cần thầy đừng giao em cho nhà trường, thầy mắng em thế nào cũng được.
Lão ta bật cười: “Trước đây tôi từng nói, tôi chưa bao giờ nổi nóng với bất kỳ sinh viên nào.”
Tôi ngẩng lên nhìn lão, đột nhiên cảm thấy của người này có chút gian gian, giả tạo vô cùng. Dù những từ ngữ này dùng cho Mộ Thừa Hòa – ân nhân cứu mạng của chúng tôi – thì thực là không có chút đạo nghĩa.
“Trốn ra ngoài bằng cách nào vậy?”
“Trèo tường.” Tôi thành thật báo cáo.
“Uống bao nhiêu rồi?”
“Bạn ấy ba, bốn chai, em sáu, bảy chai.”
“Hả…? Tửu lượng của em khá nhỉ?” Lão nhướn mày.
Tôi tự hào: “Đương nhiên rồi, từ nhỏ mẹ đã chú trọng huấn luyện em, mẹ nói con gái phải ngàn ly không say thì khi ra ngoài mới không sợ bị người khác bắt nạt.”
“Vậy sao?” Lão hỏi lại.
Thấy ánh mắt như cười như không của lão, nét mặt đắc ý đến quên mình của tôi thoáng chốc âm u. Tôi đang là tội nhân, không thể tự kiêu được.
Thế là, đề tài này đến đây kết thúc.
“Bây giờ hai em định thế nào? Tôi đưa hai em về ký túc xá nhé?” Lão vừa khởi động xe, vừa hỏi.
“Không được! Như vậy sẽ bị nhà trường phát hiện ạ!” Lão mà đưa chúng tôi về, chắc chắn sẽ không cho chúng tôi vượt tường vào nữa, mà sẽ gõ cửa ký túc xá, rồi để chúng tôi đi vào dưới ánh mắt dò xét nóng bỏng của người quản lý.
“Vậy thì sao?”
“Ừm…” Lần này thì khó thật rồi, đúng lúc này xe đi ngang qua cửa Nam của Đại học A, tôi vội nói: “Thầy thả bọn em ở đây được rồi ạ, bọn em chờ trời sáng.”
“Em định để người bạn này của em ở đâu?” Mộ Thừa Hòa nhìn vào gương chiếu hậu ra dấu cho tôi nhìn Bạch Lâm say khướt đang nằm phía sau.
Tôi cắn môi ngẫm nghĩ một lúc: “Ở cửa bên này có quán net, bọn em vào đó ngồi được rồi.”
Mộ Thừa Hòa lắc đầu, hiển nhiên là lão không đồng ý với ý kiến chẳng hay ho gì của tôi.
Lát sau, lão ta nói: “Đêm hôm khuya khoắt thế này thả hai em xuống đây, tôi cũng không yên tâm. Thôi đến nhà tôi vậy.
2
“Nhà thầy ở đâu?”
“Đông Nhị Hoàn.”
“Ôi xa quá!” Tôi thực không muốn đi.
“Sao lúc nãy khi gọi tôi đến bảo lãnh, em không nghĩ là tôi ở xa?” Lão đành chịu.
“Nhưng mà, sáng mai chúng em còn có tiết đọc hiểu.” Tôi chần chừ.
“Sáng mai tôi đưa em về trường, được chưa?” Lão nhẫn nhịn hỏi lại.
“Vậy thì được ạ!”
Lần này thì tôi không còn gì phải lo rồi.
Tiết trời đầu đông, gió đêm thổi lạnh đến thấu xương. Trong xe bật điều hòa nên không khí nóng hừng hực, lão hạ kính cửa sổ xe xuống một chút, đủ để cảm nhận làn không khí trong lành từ bên ngoài tràn vào, khiến người trong xe có cảm giác thật khoan khoái.
Suốt chặng đường, lão chỉ chăm chú lái xe. Không biết lão có đang thầm hối hận vì mình đã xui xẻo gặp phải đứa sinh viên như chúng tôi hay không?
Vào giờ này, một số cụm đèn giao thông đã ngừng hoạt động, chuyển thành màu vàng nhấp nháy.
Khi đến ngã tư chuẩn bị tiến vào khu Tam Hoàn, đèn đỏ lại bật lên, Mộ Thừa Hòa kiên nhẫn dừng xe. Tay phải đặt trên vô lăng, khuỷu tay trái đặt bên cạnh cửa sổ xe, chống cằm, mắt hướng ra ngoài nhìn những chiếc xe chạy qua trước mặt.
Nhân lúc lão đang nhìn đi nơi khác, tôi lén lút liếc sang quan sát gương mặt lão.
Lúc nãy không để ý, bây giờ tôi mới phát hiện lão đeo cặp kính gọng đen. Không ngờ lão lại bị cận, chắc là nhận được điện thoại của tôi, đi vội quá nên đã không kịp đeo kính sát tròng. Hai mắt của lão đều là mí lót[1], nên nhìn không to lắm, nhưng lại rất sâu. Mẹ tôi thường nói mắt to thu hút, mắt nhỏ hớp hồn, chẳng biết lão này sinh ra là muốn hớp hồn ai. Đồng tử màu nâu nhạt. Sống mũi rất cao.
[1] Mắt mí lót: đôi mắt dài, nhỏ, đuôi mắt hơi xếch, đặc trưng của người Á Đông.
Nếu buộc phải tìm một điểm đặc biệt thú vị trong ngũ quan trên gương mặt lão thì chắc chắn là đôi môi rồi. Môi của lão dường như sinh ra đã hơi cong lên như thế, nếu khẽ mím môi thì cho dù nét mặt đang không có cảm xúc gì cũng sẽ khiến người ta cảm thấy lão như đang cười.
Nếu nói theo con mắt thẩm mỹ của đồng hương Tiểu Bạch thì Mộ Thừa Hòa có thể được xem là một gã trai đẹp rồi chăng? Nhưng tận đáy lòng mình, tôi vẫn cảm thấy bố tôi đẹp trai hơn lão.
Đèn xanh bật sáng.
Xe lại lăn bánh, lão không chú ý đến bên ngoài nữa mà đưa mắt đảo một vòng.
Ánh mắt của tôi và lão trong giây phút ngắn ngủi đã gặp nhau qua gương chiếu hậu. Trong khoảnh khắc ấy, lão thì quang minh chính đại, còn tôi – một đứa lén lút quan sát tướng mạo của người ta nãy giờ - bỗng cảm thấy ngượng nghịu nên lúng túng nhìn ra ngoài.
“Đang nghĩ gì vậy?” Lão hỏi.
“Thì ra lúc đêm khuya, một vài cụm đèn giao thông sẽ biến thành đèn vàng nhấp nháy, thật là thú vị.” Tôi nói đại. “Em sống ở thành phố A lâu rồi, vậy mà trước đây không hề nhận ra điều này.”
Lão cười cười, không tiếp lời.
Tôi lại nói: “Nhưng tại sao lúc nãy lại có đèn đỏ nhỉ?”
“Em không cảm thấy những ngã tư có đèn đỏ đông hơn những chỗ đèn vàng sao?”
Lão nói thế, tôi mới ngẫm lại kỹ càng, hình như đúng là vậy: “Thì ra là thế ạ!”
“Xem ra khả năng quan sát của em kém thật đấy.” Lão nói đùa. “Rodin[2] nói: vẻ đẹp đâu đâu cũng có, đối với đôi mắt của chúng ta, cái đẹp không hề thiếu, mà chỉ thiếu sự phát hiện.”
[2] Auguste Rodin: tên đầy đủ là François-Auguste-René Rodin (1840 – 1917) họa sĩ người Pháp, thường được biết đến là một nhà điêu khắc. Ông là điêu khắc gia hàng đầu của Pháp thời bấy giờ và đến nay, tên tuổi của ông được nhắc đến khắp trong và ngoài giới nghệ thuật.
Mẹ tôi có những phép tắc rất nghiêm, tuyệt đối không cho tôi lang thang ngoài đường muộn hơn giờ xe buýt ngừng hoạt động. Do đó, mặc dù đã sống ở đây rất nhiều năm nhưng tôi rất ít khi có mặt ở ngoài đường vào lúc hai, ba giờ khuya.
Bây giờ nghe lão nói vậy, tôi liền chăm chú quan sát cảnh đêm trên phố.
Những đoạn đường tấp nập người qua lại vào buổi sáng giờ đây lại yên tĩnh đến lạ kỳ. Ngoài một vài người bảo vệ trực đêm đang đi đi lại lại, dường như không còn ai khác. Trên vỉa hè lác đác vài người sống lang thang đang nằm ngủ.
Giờ này, xe cộ lưu thông trên đường rất ít, chỉ có mấy chiếc xe tải ban ngày không được lưu thông trong đường nội thị nên giờ chẳng chút e dè mà phóng như bay, chớp mắt đã lướt qua. Trong đêm khuya thanh vắng, tiếng động cơ ầm ầm như chọc thủng cả màng nhĩ.
Trên một vài con phố, những người lao công đã bắt đầu công việc quét đường. Dưới ánh sáng màu vàng cam của những ngọn đèn đường chiếu rọi, bóng họ như kéo dài ra, thấp thoáng một hình ảnh lam lũ, cực nhọc.
Ở quảng trường trước mặt, một vài người công nhân đang thay những chậu hoa màu xanh.
Khi xe chạy ngang qua ngã tư Đại học Bắc Kinh, nhìn thấy bảng hiệu “Quán nướng Lôi Thị” to đùng, tôi bất giác bật cười, chỉ về phía ấy, nói với Mộ Thừa Hòa: “Khi em học tiểu học, quán thịt nướng đó chỉ là một quán nhỏ bên đường thôi, cánh gà nướng mà bà lão trong đó làm ngon lắm. Khi ấy, mỗi ngày đi học về em đều ghé vào mua, nhưng nếu em chậm quá sẽ bị mẹ mắng, cho nên lần nào em cũng giục bà ấy làm nhanh. Kết quả là, lần nào bà lão cũng giận dỗi quát em: “Con nít mà vội vàng gì chứ, cái này phải nướng từ từ mới ngon!”.”
Lão tủm tỉm cười: “Hình như em là người gốc ở đây?”
Tôi gật đầu: “Phải ạ!” Nói xong, tôi thấy có chút do dự, lại chỉnh sửa: “Nhưng cũng không phải.”
“Sao phải rồi lại không phải?”
“Năm mười một tuổi gia đình em mới chuyển đến thành phố A, lúc ấy em nói tiếng địa phương nhưng giọng không giống lắm. Người vùng khác tưởng em là người gốc ở đây, còn người gốc ở đây thì lại tưởng em là người vùng khác.” Tôi nói, đột nhiên trong lòng có chút thương cảm.
Nhưng lão lại cười: “Em còn trẻ như vậy mà đã không có cảm giác thuộc về một nơi nào đó hay sao?” Trong giọng nói của lão có chút xem thường.
Đúng là nói chuyện không hợp thì nói nửa câu cũng thấy nhiều!
Tôi chau mày, quay mặt qua hướng khác không nói chuyện với lão ta nữa.
Lát sau, lão chợt nói: “ từng sống ở rất nhiều nơi. Đến bây giờ ngay cả bản thân tôi cũng không biết rõ đâu mới là quê hương mình, nhưng lại chưa từng có cảm giác như em.”
Tôi vẫn còn tức tối, nhưng không kìm được, quay qua hỏi: “Tại sao?”
“Tôi từ nhỏ đến lớn, trong mắt người khác đã luôn bị xem là khác loài nên quen rồi.”
“Khác loài? Khác loài thế nào?” Tôi bối rối vẻ khó hiểu.
Lão hơi nhướn mày, không trả lời.
Lần này thì tôi tò mò thật rồi. Tôi thận trọng quan sát lão từ đầu xuống chân rồi lại từ chân lên đầu. Tứ chi đầy đủ, ngũ quan bình thường, dung nhan không bị hủy hoại, ngũ cảm đầy đủ, hơn nữa, sự nhanh nhạy linh hoạt của lão khi quan sát đèn đường cho thấy lão cùng không phải kẻ mù màu.
Không phát hiện có điểm nào kỳ lạ.
Tôi suy đi nghĩ lại hồi lâu, rồi hỏi lão kiểu thăm dò: “Không phải là…não bộ của thầy có vấn đề đó chứ?”
Mộ Thừa Hòa nhìn tôi một cái thật sâu, híp mắt lại, cười theo kiểu có cũng như không rồi nói: “Thật không hổ danh là lớp trưởng do tôi đào tạo.”
Trong lời nói lộ rõ ý châm chọc.
Thật ra, điều mà tôi muốn hỏi nhất không phải là chuyện đầu óc có vấn đề hay không, nhưng tôi ngại nói ra, đồng thời cũng sợ làm tổn thương lòng tự trọng của lão. Tôi nhân từ, cảm thông đến thế mà chỉ đổi lại được một câu châm chọc của lão thôi sao?
Điều này bất giác làm tôi nhớ đến một câu nói bi thương: “Tôi đem tâm tư gửi trăng sáng, nào ngờ trăng sáng soi mương máng.”
Đúng là bi kịch!
3







0 nhận xét:
Đăng nhận xét