Chương 67
Mộ Thừa Hòa im lặng một lúc mới nói: “Không phải. Có thể ông ấy là một người giỏi giang, nhưng không hẳn là một người cha tốt.”
“Tại sao?”
“Một người cha tốt sẽ không như ông ấy, bỏ lại con một mình...”
Tôi không lên tiếng.
Đi được vài bước anh lại nói: “Nhưng cũng không thể trách ông ấy, đều là lỗi của anh.”
Đi được nửa đường, anh quay đầu lại, hỏi: “Em còn đau không?”
Lần này tôi không dám làm càn nữa, thành thật trả lời: “Hết đau rồi.”
Nghe thấy thế, hình như anh yên tâm hơn, thở phào nhẹ nhõm, nhưng cũng không có ý định thả tôi xuống, tiếp tục đi.
Tôi nói: “À, em đã nghĩ ra mình muốn làm gì rồi. Năm sau, em sẽ đi thi chương trình nghiên cứu sinh của Học viện Phiên dịch, hình như bắt đầu đăng ký từ tháng sau. Tóm lại, em sẽ vừa làm việc bên này vừa ôn tập để đi thi, không phí thời gian, còn có thể kiếm tiền. Trước đây, em luôn mơ ước được dịch cabin, cho dù không thành công nhưng chí ít em đã từng cố gắng hết sức, sau này cũng không hối hận.”
“Có chí thì nên.” Anh cười.
“Ngoại ngữ 2 em chọn tiếng Nga đấy. Anh phải ôn tập cho em.”
“Được thôi.” Lại cười.
Chỉ đi một đoạn đường đêm ngắn ngủi, tôi ở trên lưng anh. Cảm nhận được hơi ấm và hơi thở từ một người khác, tôi cảm thấy dường như giữa hai chúng tôi đã có một sợi dây liên kết vĩnh hằng.
Lâu nay, tôi không biết phải gọi anh như thế nào, lúc trước gọi thầy, sau này thì gọi chung chung, lúc tức giận lần trước thì gọi luôn cả tên họ của anh. Nhưng người xung quanh có người gọi là Tiểu Mộ, có người gọi Thừa Hòa, anh bảo bố gọi anh là Tiểu Hòa.
Còn Mộ Thừa Hòa, từ đầu đến cuối vẫn chỉ dùng hai chữ ấy gọi tôi: Tiết Đồng.
Có lẽ vì khi ở nhà, bố mẹ rất ít gọi tên thân mật cho nên tôi luôn cảm thấy gọi tên thân mật hơi kỳ quặc. Nhưng trong giây phút này, giữa cảnh đêm gió mát, tôi đột nhiên rất muốn gọi tên anh.
Suy đi nghĩ lại, cuối cùng tôi dịu dàng thỏ thẻ: “Thừa Hòa.”
Bước chân của anh hình như hơi khựng lại, sau đó anh nghiêng mặt đáp: “Ừm?”
“Thừa Hòa.” Tôi lại gọi.
Lần này anh không đáp lại nữa, nhưng trên mặt lộ rõ nét cười.
2
Ban đầu kế hoạch của chúng tôi là đi câu cá vào lễ Quốc khánh, chẳng ngờ trời đổ mưa.
Mưa từ đêm hôm trước cho đến sáng hôm sau, rả rích, rả rích khiến không khí cũng trở nên mát mẻ như tiết trời mùa thu vậy.
Với kiểu thời tiết này, tôi rất thích được ngồi trong nhà với Mộ Thừa Hòa.
Anh làm việc trong phòng khách, tôi bận bịu qua lại nhưng cũng không làm phiền anh. Có lúc tôi tự ôn tập đề thi, có khi lại quét dọn nhà cửa, thỉnh thoảng cũng rót cho anh một ly nước.
Dù không nói lời nào nhưng tâm trạng chúng tôi rất tốt. Tiếc rằng, một cuộc điện thoại gọi đến phá vỡ sự yên tĩnh này.
Bác gái ở đầu dây bên kia nói: “Tiết Đồng, đến đây đi, ông nội của con... sắp không được rồi.”
Mặt tôi tức thì trắng bệch.
Mộ Thừa Hòa bước tới, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Anh chở tôi đến bệnh viện. Trên đường, trời đột nhiên mưa to hơn, tôi mơ hồ nhìn hai cần gạt nước ở trước mặt đưa đi đưa lại... Trong lúc đợi đèn đỏ, anh nhìn tôi, trầm ngâm không nói.
Khi đến phòng của ông, chúng tôi chỉ trông thấy bác gái và bà nội đang ngồi trước dường bệnh. Ông nội đang nằm trên giường, ống thở trước đó đã bị thay thế bằng máy chụp oxy. Thiết bị hỗ trợ bên cạnh không ngừng kêu tít tít, ông đắp tấm chăn mỏng, lồng ngực phập phồng cùng với nhịp hô hấp của máy móc...
Bác gái thấy tôi đi vào, liền nói: “Tiết Đồng, con đến rồi à? Chú và bác hai của con đã đi thảo luận với bác sĩ rồi.” Nói xong, nhìn thấy Mộ Thừa Hòa ở phía sau tôi, ánh mắt của bác gái hơi hồ nghi. Nhưng vì tôi không nói gì, nên Mộ Thừa Hòa lễ phép cúi đầu chào. Không phải là muốn cố tình giấu giếm anh, chỉ vì lúc này tôi không còn tâm trạng nào để ý đến những việc này.
Bác gái lại nói: “Lần trước con đến đây, chắc cũng biết gần đây sức khỏng nội con không mấy lạc quan, bác sĩ cũng đã nói các cơ quan nội tạng của ông đã bắt đầu suy kiệt, mới sáng nay, huyết áp lại tăng đột ngột, não bộ đã xuất huyết lần thứ hai...” Nói đến đây, bác gái nghẹn ngào, không nói nên lời nữa, bắt đầu lau nước mắt.
Trái lại, bà nội rất bình tĩnh, bà lấy tay vuốt mái tóc của ông lại cho gọn gàng.
Bấy giờ, bác hai và các chú của tôi cùng đi theo bác sĩ vào phòng. Bác sĩ đi đến bên giường, móc từ trong túi ra một chiếc đèn pin nhỏ, mở mắt ông lên soi soi rồi bảo bác sĩ thực tập bên cạnh ghi lại số liệu, sau đó rời khỏi.
Bác hai kéo tay áo của bác sĩ thực tập ấy, hỏi: “Thật sự là không còn chút hy vọng nào sao?”
Bác sĩ thực tập nói: “Điều này rất khó nói, cũng không thể nói là không có kỳ tích.”
Bác gái nói: “Đã nằm ở đây năm năm rồi, lúc ấy các người cũng nói có lẽ sẽ có kỳ tích, đến hôm nay vẫn là câu nói ấy.”
Bác sĩ thực tập đáp lại: “Các bác sĩ ở đây thực sự đã cố gắng hết sức, tuổi tác của bệnh nhân lại cao như vậy...”
Căn phòng im lặng trong giây lát. Bác sĩ thực tập gấp hồ sơ lại, định rời đi. Chú tôi lại hỏi: “Vậy bây giờ phải làm sao?”
Bác sĩ thực tập trả lời: “Không phải lúc nãy bác sĩ đã nói rất rõ ràng rồi sao? Thực ra, nếu bây giờ rút máy hô hấp ra thì bệnh nhân chẳng khác nào người đã chết. Trong tình trạng này, chỉ xem người nhà của bệnh nhân định thế nào thôi.” Nói xong, người đó đi ra khỏi phòng.
Bác hai lấy ra một điếu thuốc và bật lửa, vừa định đốt lên thì bác gái ở bên cạnh liền nhắc nhở, bác ấy bèn đi ra ban công. Hút liền vài hơi xong, lại quay trở vào. Những người khác vẫn đứng bất động.
Trong phòng chỉ có hai chiếc ghế, bà nội và bác gái đã ngồi, không còn cái nào khác, nãy giờ tôi chỉ đứng đấy nghe họ nói qua nói lại, giờ đây, tôi muốn tìm chỗ nào đó để dựa dẫm. Chính trong lúc này Mộ Thừa Hòa vỗ vỗ vai tôi.
Tôi quay lại nhìn anh. Anh gật đầu với tôi, như muốn nói: “Có anh ở đây, đừng sợ.”
Bà lao công vào thay túi rác, trông thấy nét mặt nghiêm trọng của chúng tôi, liền nói vài câu.
Bà ấy nói: “Tôi làm ở đây lâu năm, những trường hợp như gia đình đây tôi đã thấy rồi. Thực ra bác sĩ cũng không đành nói thẳng với các vị. Nhưng các vị để người già nằm như thế, viện phí rất cao, mà chính bản thân người bệnh cũng cảm thấy như phải chịu tội vậy, cuối cùng cũng chỉ chống cự được mấy ngày.”
Mấy lời của bà lao công như đã nói rõ hơn về sự việc này.
Bác gái liền nói: “Chị này nói rất có lý.”
“Tại sao?”
“Một người cha tốt sẽ không như ông ấy, bỏ lại con một mình...”
Tôi không lên tiếng.
Đi được vài bước anh lại nói: “Nhưng cũng không thể trách ông ấy, đều là lỗi của anh.”
Đi được nửa đường, anh quay đầu lại, hỏi: “Em còn đau không?”
Lần này tôi không dám làm càn nữa, thành thật trả lời: “Hết đau rồi.”
Nghe thấy thế, hình như anh yên tâm hơn, thở phào nhẹ nhõm, nhưng cũng không có ý định thả tôi xuống, tiếp tục đi.
Tôi nói: “À, em đã nghĩ ra mình muốn làm gì rồi. Năm sau, em sẽ đi thi chương trình nghiên cứu sinh của Học viện Phiên dịch, hình như bắt đầu đăng ký từ tháng sau. Tóm lại, em sẽ vừa làm việc bên này vừa ôn tập để đi thi, không phí thời gian, còn có thể kiếm tiền. Trước đây, em luôn mơ ước được dịch cabin, cho dù không thành công nhưng chí ít em đã từng cố gắng hết sức, sau này cũng không hối hận.”
“Có chí thì nên.” Anh cười.
“Ngoại ngữ 2 em chọn tiếng Nga đấy. Anh phải ôn tập cho em.”
“Được thôi.” Lại cười.
Chỉ đi một đoạn đường đêm ngắn ngủi, tôi ở trên lưng anh. Cảm nhận được hơi ấm và hơi thở từ một người khác, tôi cảm thấy dường như giữa hai chúng tôi đã có một sợi dây liên kết vĩnh hằng.
Lâu nay, tôi không biết phải gọi anh như thế nào, lúc trước gọi thầy, sau này thì gọi chung chung, lúc tức giận lần trước thì gọi luôn cả tên họ của anh. Nhưng người xung quanh có người gọi là Tiểu Mộ, có người gọi Thừa Hòa, anh bảo bố gọi anh là Tiểu Hòa.
Còn Mộ Thừa Hòa, từ đầu đến cuối vẫn chỉ dùng hai chữ ấy gọi tôi: Tiết Đồng.
Có lẽ vì khi ở nhà, bố mẹ rất ít gọi tên thân mật cho nên tôi luôn cảm thấy gọi tên thân mật hơi kỳ quặc. Nhưng trong giây phút này, giữa cảnh đêm gió mát, tôi đột nhiên rất muốn gọi tên anh.
Suy đi nghĩ lại, cuối cùng tôi dịu dàng thỏ thẻ: “Thừa Hòa.”
Bước chân của anh hình như hơi khựng lại, sau đó anh nghiêng mặt đáp: “Ừm?”
“Thừa Hòa.” Tôi lại gọi.
Lần này anh không đáp lại nữa, nhưng trên mặt lộ rõ nét cười.
2
Ban đầu kế hoạch của chúng tôi là đi câu cá vào lễ Quốc khánh, chẳng ngờ trời đổ mưa.
Mưa từ đêm hôm trước cho đến sáng hôm sau, rả rích, rả rích khiến không khí cũng trở nên mát mẻ như tiết trời mùa thu vậy.
Với kiểu thời tiết này, tôi rất thích được ngồi trong nhà với Mộ Thừa Hòa.
Anh làm việc trong phòng khách, tôi bận bịu qua lại nhưng cũng không làm phiền anh. Có lúc tôi tự ôn tập đề thi, có khi lại quét dọn nhà cửa, thỉnh thoảng cũng rót cho anh một ly nước.
Dù không nói lời nào nhưng tâm trạng chúng tôi rất tốt. Tiếc rằng, một cuộc điện thoại gọi đến phá vỡ sự yên tĩnh này.
Bác gái ở đầu dây bên kia nói: “Tiết Đồng, đến đây đi, ông nội của con... sắp không được rồi.”
Mặt tôi tức thì trắng bệch.
Mộ Thừa Hòa bước tới, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
Anh chở tôi đến bệnh viện. Trên đường, trời đột nhiên mưa to hơn, tôi mơ hồ nhìn hai cần gạt nước ở trước mặt đưa đi đưa lại... Trong lúc đợi đèn đỏ, anh nhìn tôi, trầm ngâm không nói.
Khi đến phòng của ông, chúng tôi chỉ trông thấy bác gái và bà nội đang ngồi trước dường bệnh. Ông nội đang nằm trên giường, ống thở trước đó đã bị thay thế bằng máy chụp oxy. Thiết bị hỗ trợ bên cạnh không ngừng kêu tít tít, ông đắp tấm chăn mỏng, lồng ngực phập phồng cùng với nhịp hô hấp của máy móc...
Bác gái thấy tôi đi vào, liền nói: “Tiết Đồng, con đến rồi à? Chú và bác hai của con đã đi thảo luận với bác sĩ rồi.” Nói xong, nhìn thấy Mộ Thừa Hòa ở phía sau tôi, ánh mắt của bác gái hơi hồ nghi. Nhưng vì tôi không nói gì, nên Mộ Thừa Hòa lễ phép cúi đầu chào. Không phải là muốn cố tình giấu giếm anh, chỉ vì lúc này tôi không còn tâm trạng nào để ý đến những việc này.
Bác gái lại nói: “Lần trước con đến đây, chắc cũng biết gần đây sức khỏng nội con không mấy lạc quan, bác sĩ cũng đã nói các cơ quan nội tạng của ông đã bắt đầu suy kiệt, mới sáng nay, huyết áp lại tăng đột ngột, não bộ đã xuất huyết lần thứ hai...” Nói đến đây, bác gái nghẹn ngào, không nói nên lời nữa, bắt đầu lau nước mắt.
Trái lại, bà nội rất bình tĩnh, bà lấy tay vuốt mái tóc của ông lại cho gọn gàng.
Bấy giờ, bác hai và các chú của tôi cùng đi theo bác sĩ vào phòng. Bác sĩ đi đến bên giường, móc từ trong túi ra một chiếc đèn pin nhỏ, mở mắt ông lên soi soi rồi bảo bác sĩ thực tập bên cạnh ghi lại số liệu, sau đó rời khỏi.
Bác hai kéo tay áo của bác sĩ thực tập ấy, hỏi: “Thật sự là không còn chút hy vọng nào sao?”
Bác sĩ thực tập nói: “Điều này rất khó nói, cũng không thể nói là không có kỳ tích.”
Bác gái nói: “Đã nằm ở đây năm năm rồi, lúc ấy các người cũng nói có lẽ sẽ có kỳ tích, đến hôm nay vẫn là câu nói ấy.”
Bác sĩ thực tập đáp lại: “Các bác sĩ ở đây thực sự đã cố gắng hết sức, tuổi tác của bệnh nhân lại cao như vậy...”
Căn phòng im lặng trong giây lát. Bác sĩ thực tập gấp hồ sơ lại, định rời đi. Chú tôi lại hỏi: “Vậy bây giờ phải làm sao?”
Bác sĩ thực tập trả lời: “Không phải lúc nãy bác sĩ đã nói rất rõ ràng rồi sao? Thực ra, nếu bây giờ rút máy hô hấp ra thì bệnh nhân chẳng khác nào người đã chết. Trong tình trạng này, chỉ xem người nhà của bệnh nhân định thế nào thôi.” Nói xong, người đó đi ra khỏi phòng.
Bác hai lấy ra một điếu thuốc và bật lửa, vừa định đốt lên thì bác gái ở bên cạnh liền nhắc nhở, bác ấy bèn đi ra ban công. Hút liền vài hơi xong, lại quay trở vào. Những người khác vẫn đứng bất động.
Trong phòng chỉ có hai chiếc ghế, bà nội và bác gái đã ngồi, không còn cái nào khác, nãy giờ tôi chỉ đứng đấy nghe họ nói qua nói lại, giờ đây, tôi muốn tìm chỗ nào đó để dựa dẫm. Chính trong lúc này Mộ Thừa Hòa vỗ vỗ vai tôi.
Tôi quay lại nhìn anh. Anh gật đầu với tôi, như muốn nói: “Có anh ở đây, đừng sợ.”
Bà lao công vào thay túi rác, trông thấy nét mặt nghiêm trọng của chúng tôi, liền nói vài câu.
Bà ấy nói: “Tôi làm ở đây lâu năm, những trường hợp như gia đình đây tôi đã thấy rồi. Thực ra bác sĩ cũng không đành nói thẳng với các vị. Nhưng các vị để người già nằm như thế, viện phí rất cao, mà chính bản thân người bệnh cũng cảm thấy như phải chịu tội vậy, cuối cùng cũng chỉ chống cự được mấy ngày.”
Mấy lời của bà lao công như đã nói rõ hơn về sự việc này.
Bác gái liền nói: “Chị này nói rất có lý.”







0 nhận xét:
Đăng nhận xét